Lưỡi kiếm đêm trăng tháng 03/1945: Nhật lật Pháp

  • Nguyễn Giang
  • BBC World Service
Nhật và Pháp

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh, Đặc sứ của chính phủ Nhật, Hajime Matsumiya (phải) được một sỹ quan Pháp và Tổng lãnh sự Nhật Rokuro Suzuki (giữa) hộ tống duyệt một đơn vị lính thuộc địa ở Hải Phòng tháng 11/1940

Chiến dịch Meigo Sakusen chỉ trong một đêm 9/03/1945 đã chính thức xóa sổ chế độ thực dân gần 100 năm của người Pháp tại Đông Dương.

Nhưng các diễn biến sau đó cho thấy các bên đều không có ý tưởng rõ rệt về tương lai Việt Nam trong những ngày cuối của Thế Chiến 2 ở Á châu.

Sự kiện 'Nhật hất cẳng Pháp' hay được mô tả là êm đẹp, chỉ 'thay thầy đổi chủ' tại Đông Dương sau thời 'một cổ hai tròng' với người bản địa từ cuối 1940.

Nhưng lần đầu tiên ở Việt Nam, sự tàn bạo của quân phiệt Nhật đã lộ ra trong chiến dịch mà họ gọi là 'Minh Hào Tác Chiến' (Bright Moon - Trăng Sáng).

Xin điểm qua một số diễn biến chính trích theo Fridrik Logevall trong 'Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam' và các nguồn khác.

- Sáng ngày 10/03, quân Nhật tràn vào dinh thự của Toàn quyền, Đô đốc Jean Decoux ở Sài Gòn, bắt ngay ông ta và các quan chức cao cấp Pháp;

-Tại Hà Nội, tướng Eugene Mordant trèo tường trốn vào thành Hà Nội (khu Cột Cờ) sau khi quân Pháp đọ súng với quân Nhật. Mordant là thủ lĩnh phe de Gaulle ngầm chống Nhật ở Việt Nam, nhưng ông ta đã nhanh chóng trèo ra phố, đi chân đất trốn vào nhà dân rồi đầu hàng. Người kế nhiệm ông, Tướng Georges Ayme, tiếp tục chỉ huy lính kháng cự rồi thua quân Nhật. Sau trận đánh ở Hà Nội, 87 người Âu, 100 người Việt bị giết. Quân Nhật cũng hơn 100 lính tử trận;

-Ở Bắc Giang, quân Pháp bị bắt toàn bộ và một số phụ nữ Pháp, gồm cả vợ của quan đầu tỉnh bị lính Nhật hiếp tập thể;

-Có tin về các buổi hành hình người Pháp: quân Nhật thường dùng kiếm dài chặt đầu họ;

-Tại Lạng Sơn giao tranh kéo dài nhất nhưng đến chập tối ngày 10/03 thì Pháp thua. Chừng 4000 quân phía Pháp chỉ có trên 500 người Âu, còn lại là lính Việt. Sau khi chặt đầu tướng Emile Lemonnier vì ông từ chối ký giấy đầu hàng, sư đoàn 22 của Nhật bắt toàn bộ tù binh Pháp và Âu (lính lê-dương) sắp hàng trước mũi súng máy để hành quyết. Với những người gục xuống chưa chết, quân Nhật xung phong, dùng lưỡi lê đâm cho chết hẳn.

-Ở Lào và Campuchia, quân Nhật không gặp kháng cự gì đáng kể và nhanh chóng thay Pháp chiếm Phnom Penh, Vientianne, Thakkhet, Luang Prabang.

Lính Nhật

Nguồn hình ảnh, Hulton Archive

Chụp lại hình ảnh, Châu Á dưới ách phát-xít Nhật: súng gắn lưỡi lê, kiếm và cờ Nhật

- Ở Việt Nam, vài nghìn tàn quân Pháp-Âu do hai tướng Marcel Alessandri và Gabriel Sabbattier chỉ huy chạy lên phía Tây Bắc và tìm đường chạy sang Lào.

Tướng Charles de Gaulle từ châu Âu đột nhiên phong Sabbattier làm tư lệnh quân Pháp thuộc phe Đồng Minh ở Đông Dương và ra lệnh ở lại Việt Nam kháng Nhật.

Vấn đề là từ 60 nghìn, Pháp chỉ còn chưa đầy 6000 quân người Âu, không có lính Việt nữa và thiếu đạn dược, lương thực.

Khả năng đương đầu với nhiều sư đoàn thiện chiến của Nhật để giành lại Đông Dương là vô vọng nên Tướng Sabbattier đã quyết định rút sang Nam Trung Quốc.

Chuyển biến tâm lý và thời cơ mới

Chiến dịch Trăng Sáng đã hoàn toàn xóa bỏ sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam, tạo ảnh hưởng tâm lý ghê gớm cho người bản xứ.

Sự kiện "ông chủ da trắng đã bị hạ bệ và bị hạ nhục" đã thay đổi tâm trí của người dân Indonesia, Malaya (gồm cả Singapore), và Đông Dương.

Sự bừng tỉnh về danh dự chủng tộc cho người châu Á thấy cơ hội bỏ ách thực dân, theo sử gia Anh, Max Hastings.

Nhưng những gì trước mắt thì còn rất mù mờ.

Quân Nhật vẫn cầm tù 15 nghìn người Pháp và Âu sau khi đã giết trong giao tranh hoặc hành quyết hơn 4000.

Sự tàn bạo của quân Nhật khiến tuyên truyền về Khối Đại Đông Á của Nhật trở nên khó thuyết phục.

Nhưng về quân sự, Pháp thua tại Đông Dương đúng vào lúc Đồng Minh ngày càng nhận thấy vai trò chiến lược của khu vực này cho các trận đánh lớn ở Đông Á.

Lính Nhật

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh, Lính Nhật hành quân tiến vào Hải Phòng tháng 9/1940

Một số lính người Việt có năng lực tác chiến, biết dùng vũ khí hiện đại sau khi bị giải tán khỏi lực lượng thuộc địa của Pháp, đã gia nhập các nhóm kháng chiến.

Đông Dương chỉ là chiến trường phụ

Nhưng các đại cường và kể cả quân Nhật đều không có kế hoạch gì cụ thể cho Việt Nam và Đông Dương vào tháng 3/1945.

Nhật đưa quân vào Hải Phòng từ tháng 9/1940 sau khi chính phủ Vichy ở chính quốc đã đầu hàng Đức, đồng minh của Nhật ở châu Âu.

Các chế độ thực dân châu Âu khác như Hà Lan ở Indonesia, Anh Quốc ở Singapore, Miến Điện, Ấn Độ, đều chống lại quân đội Nhật Hoàng.

Riêng Thống chế Petain đồng ý hợp tác với Tokyo biến chính quyền Pháp ở Đông Dương thành bộ máy người Âu duy nhất làm tay sai cho Nhật Bản ở châu Á.

Một số trí thức tự do Pháp coi đây là 'nỗi nhục'.

Jean Paul-Sartre nhận xét: "Trong vòng năm năm, chúng ta đã dần có thêm mặc cảm thấp kém".

Pháp ở Đông Dương còn điều chỉnh giờ Hà Nội (đài thiên văn Phủ Liễn) theo chuẩn mới bên mẫu quốc, dựa vào giờ Berlin, để làm vừa lòng Đức.

Toan tính của Nhật

Tuy nhiên, Nhật Bản cũng chỉ có mục tiêu dùng Việt Nam làm bàn đạp cho các chiến dịch quân sự bên ngoài.

Nhật đưa quân vào Đông Dương lần đầu tháng 9/1940 vì nhu cầu chiến tranh ở Trung Quốc.

Sang năm 1941, Nhật vào miền Nam Việt Nam để chuẩn bị cho chiến dịch chiếm Indonesia khi đó thuộc chế độ thực dân Hà Lan.

Các tư lệnh Đội quân Quan Đông khét tiếng tàn ác và có tham vọng lãnh thổ đã cổ vũ mạnh nhất cho việc đem quân vào Đông Dương.

Nhưng việc quản trị xứ sở to lớn này lại quá sức với bộ máy quân sự viễn chinh.

Nhật Bản có thể đổi Singapore nhỏ bé thành tỉnh Chiêu Nam để trực trị nhưng với Đông Dương có tới 25 triệu dân, họ vẫn phải dùng người Pháp.

Việt Nam trong những nước cờ

Thỏa thuận Kato-Darlan ký tại thành phố Vichy tháng 7/1941 chia ra: miền Bắc do Pháp đảm trách về an ninh, quân sự và ở miền Nam thì do Nhật nắm.

Đây là lần đầu tiên Việt Nam bị chia cắt Nam - Bắc theo một thỏa thuận quốc tế ký kết tại châu Âu.

Nạn đói thảm khốc ở miền Bắc Việt Nam năm 1945 xảy ra một phần vì Nhật tịch thu gạo để phục vụ chiến tranh, một phần vì chế độ phân chia quản trị Nam - Bắc khác nhau giữa Nhật và Pháp khiến lúa Nam Bộ không được chuyển ra Bắc.

Sau khi rút khỏi Singapore, quân Nhật lấy Sài Gòn làm đại bản doanh cho Nguyên soái Terauchi Hisaichi, Tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Phương Nam từ 1944.

Nhưng đến đầu năm 1945, Hoa Kỳ và đồng minh ném bom liên tục vào các mục tiêu của Nhật ở Việt Nam.

Ban đầu là các chuyến bay ném bom từ Nam Trung Hoa của quân đoàn do Tướng C. Chennault chỉ huy bắn phá miền Bắc Việt Nam.

Sau đó, phi cơ Hạm đội 3 của Đô đốc William Halsley cũng đánh bom Sài Gòn, Quy Nhơn ở phía Nam.

Lực lượng Đồng minh do Lord Mountbatten của Anh ở Sri Lanka cũng ngày càng thấy Đông Dương quan trọng cho các chiến dịch đẩy Nhật khỏi Đông Nam Á.

Đầu năm 1945, quân Mỹ đã đổ bộ vào Luzon, Philippines và các đơn vị Nhật Bản nay chỉ còn rút về các vùng đất của chính họ.

Về phía mình, các tư lệnh Nhật Bản đang phải đối phó với các chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào Iwo Jima và Okinawa trong cách đánh "nhảy đảo" để tới đất liền Nhật Bản.

Theo Fridrik Logevall, các tướng Nhật đã biết họ sẽ thua.

Vai trò của Đông Dương ra không còn nhiều sau khi quân Nhật dùng các cảng như Sài Gòn để chuyển quân đánh chiếm Indonesia (1941) và Singapore (1942).

Quân Nhật từ Lào để đánh vào Ấn Độ nhưng không thành và bị lính Anh chặn lại ở trận Kohima, vùng núi Miện Điện năm 1944.

Tuy thế, theo Logevall, lãnh đạo Nhật tính rằng chiếm toàn bộ Đông Dương tháng 3/1945 có thể giúp cho họ một lá bài để đàm phán với quân Đồng Minh khi cần.

Một số nhóm cực đoan nhất trong giới quân sự Nhật Bản cũng tính đến việc tổ chức kháng cự ở Đông Dương khi cần.

Lính Nhật

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh, Quân Nhật vào Nam Kỳ tháng 1/1941

Cùng lúc, Nhật giao quyền cho Hoàng đế Bảo Đại lập một nội các đã ra được quyết định về giáo dục, chữ Quốc ngữ mà không có quyền gì khác.

Cho đến ngày cuối cùng của chính phủ Trần Trọng Kim, hiến binh Nhật vẫn chặn Đại Nội ở Huế và kiểm soát từng người vào gặp vua Bảo Đại.

Chưa kịp làm gì với Việt Nam thì Nhật Bản bị Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử và đầu hàng.

Đông Dương, nhất là Việt Nam, trở thành 'vùng bỏ ngỏ' để Việt Minh và các đảng phái giành độc lập trong Cách mạng Tháng Tám như chúng ta đã biết.

Luôn là 'number 2'?

Đại diện của Nhật Bản ký kết đầu hàng

Nguồn hình ảnh, Galerie Bilderwelt

Chụp lại hình ảnh, Bộ trưởng Ngoại giáo Đế quốc Nhật, Mamoru Shigemitsu (đội mũ đen) và Tướng Yoshijiro Umezu, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhật Hoàng cùng các đại diện Bộ Ngoại giao, Lục quân và Hải quân trên chiến hạm USS Missouri để ký văn bản đầu hàng trước quân Đồng Minh ngày 2/09/1945 ở Vịnh Tokyo

Ngày nay nhìn lại, năm 1945 là bài học về thời cơ và thời cuộc lớn cho người Việt Nam.

Về cơ bản, người Việt Nam bị rơi vào hoàn cảnh là 'vị trí địa lý đẹp nhưng bị ám bởi vị thế địa chính trị tệ': 'geographical blessing versus geopolitical curse'.

Cuộc lật đổ Pháp đầy bạo lực nhưng mang cái tên mỹ miều như thơ haiku của phát-xít Nhật một đêm tháng 3/1945 báo hiệu thời kỳ tàn khốc về sau này.

Điều không may nhất là Việt Nam trong thời điểm đó chỉ được các đại cường coi là 'vị́ trí phụ': hoặc chiến trường để giành ngôi vị tại Trung Quốc, vùng Thái Bình Dương, hoặc căn cứ hậu cần để chuyển quân.

Tệ hơn cả, các đế quốc đến rồi đi.

Mỗi kẻ đến với một tính toán riêng và phần nhiều coi Việt Nam là lá bài để mặc cả cho các chuyện khác của họ:

Anh Quốc nhận ủy nhiệm của Đồng minh vào phía Nam Đông Dương tháng 9/1945 giải giáp quân đội Nhật rồi đi.

Tới Sài Gòn - Gia Định, tướng Douglas Gracey tranh thủ giúp Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam, chỉ để Anh có đồng minh hậu chiến khả dĩ một chút tại châu Âu để chống lại Liên Xô trong thế cờ mới định hình.

Pháp thực chất là nước bại trận, còn đồng lõa với phát-xít Đức mà chỉ nhờ lực lượng kháng chiến của Tướng de Gaulle mà gỡ lại chút vai vế.

Pháp cũng 'cố đấm ăn xôi' để giành lại Đông Dương năm 1945-46 chỉ vì đã quá kém cỏi ở châu Âu và cần vớt vát uy thế đế quốc đã tàn.

Nhật Bản chỉ coi Đông Dương và Việt Nam là chiến trường nhỏ cho các 'war theatre' lớn hơn.

Việc Nhật Bản có giúp một số nhóm dân tộc chủ nghĩa bản địa người Việt và Khmer ở Nam Bộ cũng mang tính chiến thuật, thậm chí lợi dụng họ rồi bỏ rơi.

Trung Hoa Dân Quốc tham nhũng và rối bời vì nội chiến phải đến 1943 mới có tuyên bố chung chung ủng hộ độc lập tương lai cho Triều Tiên, Việt Nam, Philippines.

Trước đó, họ muốn giành lại ngôi vị 'Thiên Triều' của Trung Hoa tại Việt Nam nếu một ngày đẩy được người Pháp đi.

Tệ hơn, trong các năm 1930-40, không ít quan chức chính quyền Tưởng bắt các nhà hoạt động Việt Nam chạy sang lánh nạn rồi trao trả cho Pháp để kiếm tiền.

'Hoa quân nhập Việt' năm 1945 với hoạt động của các tướng phía Nam như Trương Phát Khuê chấm dứt vì Tưởng Giới Thạch không có đường lối gì cụ thể.

Hoa Kỳ đúng là có cử nhóm OSS giúp Hồ Chí Minh ở thượng du Bắc Việt nhưng cũng cho OSS giúp Pháp nhảy dù xuống Cao nguyên miền Trung để chống Nhật.

Tổng thống Roosevelt ra lệnh cấm vận dầu lửa sau khi Nhật đưa quân vào Đông Dương, gián tiếp khiến Nhật quyết định đánh thẳng vào Mỹ ở Trân Châu Cảng.

Phi cơ vận tải Pháp

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Hình minh họa phi cơ vận tải A400M: Một phi đoàn trong chiến dịch Pegase do tướng Patrick Charaix chỉ huy đến châu Á tháng 8/2018 đã đưa Không quân Pháp thăm lại Việt Nam lần đầu từ 1954

Ngay cả Liên Xô thời Stalin sau năm 1945 cũng ưu tiên châu Âu mà không màng gì đến Việt Nam, thậm chí không công nhận chính quyền Hồ Chí Minh năm 1945.

Cũng vì không phải là ưu tiên của nước lớn nào, nên công cuộc độc lập chỉ thành công về biểu tượng và Việt Nam rơi vào cuộc chiến Đông Dương lần 1 với Pháp.

Sau cuộc chiến thứ nhì, rồi sang thời Hậu Chiến tranh Lạnh, nay vị thế Việt Nam đã hoàn toàn khác.

Nhưng vì Biển Đông và Trung Quốc trỗi dậy, các nước lớn lại tìm đến Việt Nam, vẫn mấy gương mặt quen thuộc xưa: Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh Quốc và cả Pháp.

Bàn cờ địa chính trị chắc chắn không còn như xưa nhưng sẽ xoay theo hướng nào đây?

Xem thêm về quan hệ Pháp - Việt: